Ở Nam bộ, trước cách mạng tháng tám ( năm 1945 ) Open hai tôn giáo mới đó là đạo Cao đài và Phật giáo Hòa Hảo. Sự sinh ra của Phật giáo Hòa Hảo có tương quan đến đặc trưng của Phật giáo. Bài viết này sẽ tìm hiểu và khám phá về giáo lý, luật lệ, lễ nghi và cơ cấu tổ chức tổ chức triển khai của Phật giáo Hòa Hảo .
Thứ nhất về Kinh sách: Giáo lý Phật giáo Hòa Hảo được thể hiện trong cuốn “Sấm giảng thi văn toàn bộ” của Đức Huỳnh Giáo chủ do Ban phổ thông Giáo lý Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo xuất bản năm 1966. Tâp sách này chia làm hai phần là “Sấm giảng giáo lý” và “Thi văn Giáo lý”, trong đó:
* Sấm giảng giáo lý: được coi là phần nói về giáo lý Phật giáo Hòa Hảo mang tính sấm truyền của ông Huỳnh Phú Sổ – người sáng lập Phật giáo Hòa Hảo. Sấm giảng có 06 quyển gồm:
Quyến một với tựa đề “Sấm giảng khuyên người đời tu niệm” với 912 câu thơ được viết vào năm 1939 sau khi ông Huỳnh Phú Sổ làm lễ khai đạo. Nội dung quyển này, ông Huỳnh Phú Sổ tiên tri về thời vận, từ đó khuyên con người tu hành chân chính.
Quyển 2 với tựa đế ” Kệ dân của người khùng ” với 476 câu thơ viết tại làng Hòa Hảo vào cuối năm 1939. Nội dung quyển này, ông Huỳnh Phú Sổ lên án những hoạt động giải trí mê tín dị đoan dị đoan đang lan tràn khắp quốc gia, khuyên mọi người tu niệm để được cứu rỗi những ngày hạ nguyên tận diệt .
Quyển 3 với tựa đề ” Sấm giảng ” gồm 612 câu thơ viết tại làng Hòa Hảo vào cuối năm 1939. Nội dung quyển này, ông Huỳnh Phú Sổ phê phán thói sấu bị hấp dẫn theo đời sống vật chất tầm thường và khuyên con ngươi tu nhân tích đức để chuyển nghiệp .
Quyển 4 với tựa đề ” Giấc mê tâm kệ ” với 846 câu thơ viết năm 1939. Nội dung quyển này ông Huỳnh Phú Sổ thuyết giảng về giáo lý nhà Phật như : Tứ diệu đế, Ngũ uẩn, Bát chánh đạo … để người đời tu học .
Quyển 5 với tựa đề ” Khuyến thiện ” với 756 câu thơ được viêt năm 1941 tại Chợ Quán, Hồ Chí Minh. Nội dung quyển này, ông Huỳnh Phú Sổ kể lại thân thế sự nghiệp của Phật Thích Ca để từ đó khuyên mọi người hãy noi gương Phật Thích Ca để tu hành theo pháp môn Tịnh độ .
Quyển 6 với tựa đề ” Những điểu sơ lược cần biết của người tu hiền ” được viết tại TP HCM năm 1945 bằng văn xuôi theo kiểu tản văn. Nội dung quyển này, ông Huỳnh Phú Sổ lý giải thêm về Tứ ân, Tam nghiệp, Thập thiện, Bát chánh đạo theo cách hiểu của đạo Phật và trình diễn về những nghi thức cúng lễ, hành đạo .
* Thi Văn giáo lý: gồm có 253 bài văn vần và văn xuôi được xếp theo thứ tự thời gian từ năm 1939 đến năm 1947. Đối với tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, nếu Sấm giảng giáo lý được coi là sự mạc khải của Tiên phật cho con người mà Đức Huỳnh giáo chủ linh ứng thì phần Thi văn giáo lý lại được coi là lời luận giải giáo lý của Đức Huỳnh giáo chủ.
Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ
Người sáng lập Phật giáo Hòa Hảo
Thứ hai: về giáo lý
Theo sách Sấm giảng thi văn hàng loạt thì Giáo lý Phật giáo Hòa Hảo gồm có hai phần đó là Học Phật và Tu nhân. Có quan điểm cho rằng nếu gọi là Giáo lý của Phật giáo Hòa Hảo thì chỉ có phần học Phật, còn phần tu Nhân chỉ là lối sống đạo. Tuy nhiên để hiểu được nét đặc trưng của giáo thuyết Phật giáo Hòa Hảo thì cần hiểu cả hai ý niệm về học Phật và tu Nhân .
* Phần học Phật: Phật giáo Hòa Hảo dựa vào giáo lý của Phật giáo nhưng khi giải thích lại tập trung vào ba pháp môn chính là Ác pháp, Chân pháp và Thiện Pháp, trong đó:
– Ác pháp: là các pháp làm trở ngại cho thiện pháp, làm cho con người ô nhiễm thân tâm, gây nên tội lỗi và vướng mãi trong vòng luân hồi sinh tử, thuộc về các pháp có các lý thuyết như:
+ Tam nghiệp là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp tạo ra mười điều những là : sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói dối hai mặt, nói điều ác, nói chém gió, tham lam, giận giữ, si mê .
+ Thất tình : là bảy trạng thái tình cảm : buồn, yêu, ghét, vui, giận, sướng, muốn .
+ Lục dục là sáu điều ham muốn : danh, tài, sắc, hư, tật
+ Ngũ uẩn là năm thứ mê hoặc tham, sân, si, nhân, ngã mà trở nên đần độn, ngu si, tối tăm cản trở con người đến chỗ siêu thoát ( nguyên gốc Ngũ uẩn là triết lý rất quan trọng của đạo Phật khi nói về 05 yếu tố là : sắc, thụ, tưởng, hành, thức tạo nên con người )
+ Tứ đổ tường là bốn bức tường làm cho con người sa ngã, tăm tối, tội lỗi là : cờ bạc, rượu chè, trai gái, danh vọng .
– Chân pháp: là các pháp phá tan những mê hoặc tối tăm để bừng sáng về trí tuệ tiến tới giác ngộ chân lý. Thuộc về Chân pháp có các thuyết như:
+ Tứ diệu đến gồm có 04 chân lý, trong đó : tập đế là khi mới vào tu ; diệt đế là phải diệt trừ những ác pháp ; khổ đế là nhẫn nại, nhịn khổ trong tu tập ; đạo đế là đạt đến bậc giác ngộ – thành đạo ( nguyên gốc tứ diệu đế là bốn chân lý cao siêu của Phật khi nói về sự khổ của con người ) .
+ Thập nhị nhân duyên là 12 nhân duyên chằng chịt tạo ra chuỗi dây nhân quả của vòng luân hồi sinh tử mà con người vướng vào không thoát ra được .
+ Ngũ trược là năm thứ nhơ bẩn làm ô nhiễm nhân tâm nên mải say đắm trong cõi trần ai tục lụy
– Thiện pháp: là các pháp lành mà con người cần tu tập để gây thiện duyên, sửa trị thân tâm cho thanh sạch để chứng các quả vị Phật. Thuộc về Thiện pháp có các thuyết như:
+ Bát chính nghĩa : là 08 con đường tu hành chân chính, nếu ai theo sẽ diệt trừ được những ác pháp do thân, khẩu, ý tạo ra, đơn cử : chính kiến, chính nghiệp, chính mạng sẽ diệt trừ ác pháp về thân ; chính ngữ diệt trừ ác pháp về khẩu và chính tư duy, chính tinh tiến, chính định, chính niệm sẽ diệt trừ ác pháp về ý .
+ Bát nhẫn là 08 điều nhẫn nhịn để vượt qua những thử thách trong xử thế và tu tập, trong đó : nhẫn năng xử thế là giữ cách xử xự với đời ; nhẫn giới là giữ nghiêm giới luật ; nhẫn hương lân là giữ trung khí so với hội đồng, làng xóm ; nhẫn phụ mẫu là giữ đức kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ ; nhẫn tâm là giữ lòng an định ; nhẫn tính là giữ cho tính tình điềm đạm ; nhẫn đức là giữ cho đức độ, hòa nhã và nhẫn thành là giữ thành tâm, thành tín .
* Phần tu nhân : giáo thuyết Phật giáo Hòa Hảo nhấn mạnh vấn đề việc tu học theo Tứ ân tức là bốn điều ân tình : Ân tổ tiên cha mẹ, Ân quốc gia, Ân đồng bào, Ân tam bảo. Phật giáo Hòa Hảo lý giải đơn cử như sau :
– Ân tổ tiên cha mẹ: Mỗi con người sinh ra được nuôi dưỡng trưởng thành là nhờ công lao cha mẹ, nhưng công sinh thành ra cha mẹ là ông bà tổ tiên. Do đó phải sống có hiếu với cha, mẹ, ông, bà, tổ tiên. Muốn đền ơn cha mẹ phải nghe lời răn dạy, không làm điều xấu để phiền lòng cha mẹ; phải chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ nhất là lúc cha, mẹ ốm đau, già yếu. Muốn đền ơn ông bà tổ tiên, không được làm tổn hại đến truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ. Nếu tổ tiên có làm gì sai lầm gieo rắc đau thương cho con cháu thì phải quyết chí tu cầu để rửa nhục. Đây là ân nghĩa đầu tiên quan trọng nhất trong Tứ đạo.
– Ân đất nước: Mỗi người phải ân nghĩa với đất nước, quê hương vì đó là nơi nuôi ta sống và ông và tổ tiên ta thường sống, đó là nơi cho ta thuần phong mỹ tục, nâng tâm hồn ta lên và nâng bước ta đi. Mỗi con người phải yêu đất nước, yêu quê hương; tùy theo tài lực của mình mà làm cho quê hương giàu mạnh. Mỗi con người phải có trách nhiệm bảo vệ đất nước khi bị ngoại xâm và nhất là không phản bội Tổ quốc, làm tay sai cho ngoại bang.
– Ân đồng bào, nhân loại: mỗi con người phải sống ân nghĩa với đồng bào của mình, những người sống trong cùng đất nước, cùng màu da, tiếng nói, cùng đất nước, cùng tổ tiên con rồng cháu lạc. Phải sống ân nghĩa với những người xung quanh đã từng chia sẻ với nhau niềm vui, nỗi buồn, từng giúp đỡ nhờ cậy trong lúc khó khăn, hoạn nạn. Không những thế mỗi con người phải ân nghĩa với đồng loại, nhân sinh, không phân biệt màu da, chủng tộc, sang hèn, giàu nghèo.. theo tinh thần từ bi hỉ xả, vô ngã vị tha không gây thù hằn, không vì bản thân, dân tộc mình mà gây hại cho người khác, dân tộc khác.
– Ân tam bảo: Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng. Ân Tam bảo là ghi nhớ công ơn Phật, Pháp, Tăng đã khai mở trí tuệ cứu vớt chúng sinh khỏi vòng trầm luân khổ ải. Bổn phận của mỗi con người phải noi theo tiền nhân tôn kính Tam bảo, tu rèn thân tâm để tiến trên con đường giải thoát.
Như vậy với những giáo thuyết như đã nói ở trên phần tu Nhân của Phật giáo Hòa Hảo là sự thừa kế và tiếp nối tư tưởng Tứ đại trọng ân của Phật thầy Tây An mà trực tiếp là Tứ ân hiếu nghĩa của ông Ngô Lợi. Phật giáo Hòa Hảo chủ trương vừa học Phật vừa tu nhân. Học Phật tạo nên đức, tu nhân tạo nên công. Có công đức mới nhanh gọn trở thành bậc tiền nhân được. Tuy nhiên, trong hai phần học Phật và tu Nhân, Phật giáo Hòa Hảo đặc biệt quan trọng coi trọng phần tu Nhân. Phật giáo Hòa Hảo cho rằng phần tu Nhân phải dựa trên cơ bản đạo đức, trước hết là đạo làm người vì ” Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên ” ; thậm chí còn Phật giáo Hòa Hảo cho rằng không thực thi được tu nhân thì không có học Phật được, hoặc có học Phật cũng chả có ý nghĩa gì .
Với giáo lý học Phật tu Nhân nêu trên, ông Huỳnh Phú Sổ cho rằng Phật giáo Hòa Hảo là một môn phái đặc sắc nhất trong các môn phái của Phật giáo. Nó sẽ khắc phục được các hạn chế của Phật giáo là có quá nhiều kinh sách, triết lý cao siêu, trừu tượng chỉ phù hợp trong việc giáo hóa cho một số rất ít người có điều kiện xuất gia tu hành. Còn Phật giáo Hòa Hảo mang tính chất phổ quát phù hợp với căn cơ của đại đa số chúng sinh, những cư sĩ tại gia. Pháp môn học Phật và tu Nhân của Phật giáo Hòa Hảo sẽ nhanh chóng đào tạo ra nhiều người hiền, có công đức trong chúng sinh.
* Thứ ba: về luật lệ, lễ nghi
Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo là những cư sĩ tại gia nên việc thờ phượng và hành đạo rất đơn thuần, hầu hết được triển khai tại mái ấm gia đình. Phật giáo Hòa Hảo chỉ thờ Phật, thờ những vị anh hùng dân tộc bản địa. Phật giáo Hòa hảo không thờ thần thánh không rõ căn tích .
Phật giáo Hòa Hảo thờ Phật nhưng không bằng tượng cốt, tranh vẽ mà thờ tấm vải Trần Dà ( là tấm vải màu nâu ) thay cho tấm vải Trần Điều ( là tấm vải màu đỏ ) của Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương với cùng một quan niệm Phật tức tâm, tâm tức Phật ; ông Huỳnh Phú Sổ đã lý giải việc đổi thờ Trần Điều thành Trần Dà như sau : Từ trước, tất cả chúng ta thờ Trần Điều là di tích lịch sử của Phật thầy Tây An để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ sai phép, sai với tôn chỉ của đức Phật nên toàn thể trong đạo của tất cả chúng ta đổi lại màu dà. Lại nữa, từ trước đến giờ những sư vẫn dùng màu dà để bộc lộ cho sự thoát tục của mình và màu ấy là màu phối hợp của toàn bộ những sắc tố khác nên hoàn toàn có thể tượng trưng cho sự hòa hiệp của quả đât, không phân biệt chủng tộc và cá thể .
Ở mỗi mái ấm gia đình của Phật giáo Hòa Hảo có 03 bàn thờ cúng : Bàn thờ Phật cao nhất chỉ treo tấm Trần Dà ; bàn thờ cúng tổ tiên đặt dưới bàn thờ cúng Phật ; bàn thờ cúng thông thiên thờ ngoài trời, ở trước cửa nhà. Sau này Fan Hâm mộ Phật giáo Hòa Hảo còn thờ ảnh của ông Huỳnh Phú Sổ, thường được đặt dưới tấm Trần Dà. Lễ phẩm cúng Phật hay cúng trời đất ở bàn thông thiên chỉ có hương, hoa và nước lạnh. Nước lạnh biểu lộ sự trong sáng, hoa bộc lộ sự tinh khiết, hương thơm xua đuổi sát khí. Ông Huỳnh Phú Sổ khuyên Fan Hâm mộ không nên làm giỗ linh đình và tốn kém, bởi thánh thần và người chết không ăn được. Phật giáo Hòa Hảo tuyệt đối không dùng vàng mã khi cúng giỗ, vì cho rằng đó chỉ là những thứ giả tạo, không thiết yếu .
Phật giáo Hòa Hảo không dùng kinh kệ của Phật giáo mà chỉ đọc sấm giảng của ông Huỳnh Phú Sổ và miện Lục tự Di Đà ( sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật ) để tĩnh tâm. Do cách hành đạo niệm Lục tự Di Đà nên Phật giáo Hòa Hảo tự nhận mình là Pháp môn Tịnh độ Phật học tu nhân. Phật giáo Hòa Hảo không lạy người sống, trừ ông bà, cha, mẹ .
Hiện nay, Phật giáo Hòa hảo có những dịp nghỉ lễ chính sau : Ngày 01 tháng giêng là tết Nguyên đán ; ngày 15 tháng giêng là lễ Thượng nguyên ; ngày 08/4 lễ Phật đản ; ngày 18/5 lễ Khai đạo ; ngày 15/7 lễ Trung nguyên ; ngày 12/8 lễ Phật thầy Tây An ; ngày 15/10 lễ Hạ nguyên ; ngày 25/11 lễ sinh Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ ; ngày 08 tháng chạp lễ Phật thành đạo. Trong những ngày lễ hội trên thì lễ Khai đạo và lễ sinh nhật Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ là hai dịp nghỉ lễ quan trọng. Ngoài ra, Phật giáo Hòa Hảo còn có những đợt nghỉ lễ khác như lễ giỗ Đức Ông, Đức Bà ( là bố, mẹ ông Huỳnh Phú Sổ ), lễ vía Phật thầy Tây An và những đệ tử của ông …
Trong đời sống, Fan Hâm mộ Phật giáo Hòa Hảo triển khai tám điều răn của ông Huỳnh Phú Sổ, xem đó như giới luật của đạo, đơn cử :
Một là không được uống rượu, hút thuốc phiện, chơi bời đàng điếm, phải giữ trọng luân lý tam cương, ngũ thường .
Hai là không được lười biếng, phải cần kiệm, sốt sắng lo làm ăn và lo tu luân chân chất ; không được gây gổ lẫn nhau và luôn tha thứ cho nhau khi nóng giận .
Ba là không được ăn sài, trưng diện thái quá và tận dụng tiền tài mà quên nhân nghĩa đạo lý, đừng sống ích kỷ và xu nịnh kẻ giàu, phụ người nghèo khó .
Bốn là không được kêu trời, phật, thần thánh mà sai, hoặc nguyền rủa thần thánh không can dự đến ta .
Năm là không ăn thịt trâu bò, chó và sát hại sinh vật mà cúng thần thánh vì thấn thánh không khi nào dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu can tội sẽ chịu tội ; còn những hạng ăn đồ cúng mà hết bệnh là tà thần, nếu cúng kiếng mãi thì chúng quên ăn sẽ nhiễu hại ta .
Sáu là không đốt giấy tiền tài, vàng mã, quần áo mà tốn tiền vô lý vì cõi Diêm Vương không khi nào ăn hối lộ của ta, mà cũng không sai được nữa, phải để tiền tiêu tốn lãng phí ấy cứu trợ cho những người đói rách, tàn tật .
Bảy là đứng trước mọi việc về sự đời và đạo đức phải quan tâm đến cho minh lý rồi sẽ phán đoán vấn đề ấy .
Tám là phải yêu dấu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt nhau vào đường đạo đức. Nếu ai giữ được trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây Phương an dưỡng mà học đạo cho trọn vẹn đặng trở lại cứu vớt chúng sinh .
Ngoài ra, Phật giáo Hòa hảo còn răn dạy Fan Hâm mộ tôn trọng những người khác tín ngưỡng, nhất là không cậy đông người mà ức hiếp hoặc nói xấu, bài xích ; không nên gây oán thù mà phải làm lành với họ. Đối với nhân sinh nói chung thì phải giữ mối quan hệ hòa hợp, gây thiện cảm lẫn nhau ; đồng thời phải biết thương xót, giúp sức mọi người nhất là những lúc khó khăn vất vả, hoạn nạn. Phật giáo Hòa Hảo khuyến khích ăn chay trường, nhưng nếu không có điều kiện kèm theo thì hàng tháng ăn chay bốn lần vào những ngày 14, 15, 29, 30 hoặc ngày mùng một nếu là tháng thiếu. Những ngày ăn mặn phải kiêng ăn thịt những con vật như trâu, bò, chó vì chúng có ích và sống gắn bó với con người .
Hôn nhân và tang ma Phật giáo Hòa Hảo đơn thuần và tân tiến. Phật giáo Hòa Hảo khuyên cha mẹ không ép buộc tình duyên con cháu nhưng phải có bổn phận hướng dẫn, khuyên bảo chúng ; không nên để con quá tự do mà thiếu kinh nghiệm tay nghề làm cho chúng hư hỏng. Phật giáo Hòa Hảo khuyên không thách cưới bằng lễ vật hay tiền, tổ chức triển khai lễ cưới đơn thuần, tiết kiệm chi phí. Hôn lễ và tang lễ của người theo Phật giáo Hòa Hảo cũng giống như người Việt, không có dấu ấn tôn giáo riêng. Ông Huỳnh Phú Sổ còn khuyên mọi người không thút thít trong tang lễ vì làm vậy sẽ cản trở sự siêu thoát anh linh của người chết .
Ngoài những yếu tố nêu trên, Phật giáo Hòa Hảo còn đề cập đến nhiều yếu tố khác của đời sống xã hội với thái độ tích cực như cấm tuyệt đối việc chơi cờ bạc, hút thuốc phiện và mê tín dị đoan dị đoan ; Phật giáo Hòa Hảo còn khuyên mọi người siêng năng học tập để lan rộng ra kỹ năng và kiến thức và giúp cho việc tu học. Phật giáo Hòa Hảo khuyên Fan Hâm mộ rèn luyện thân thể, giữ vệ sinh vì thần thánh chỉ gần những kẻ trong sáng, nên nếu ai muốn được tiếp độ thì phải trong sáng cả niềm tin lẫn vật chất. Phật giáo Hòa Hảo không bắt mọi người để tóc dài, nhưng có lẽ rằng một mặt noi theo Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, mặt khác để chứng tỏ mình không bị ảnh hưởng tác động bởi văn minh phương Tây nên hầu hết nam Fan Hâm mộ Phật giáo Hòa hảo thường để tóc dài và búi tó. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo thường mặc áo bà ba, áo dài màu đen hoặc màu dà ( màu vàng ) .
Trước đây Phật giáo Hòa Hảo có pháp luật về nghi thức nhập đạo và ra đạo khá ngặt nghèo, có phần gần giống như tổ chức triển khai chính trị. Người muốn nhập đạo cần có một số ít điều kiện kèm theo như : Phải tự nguyện, có tuổi từ 18 trở lên, viết đơn xin gia nhập đạo, phải có 02 bổn đạo cũ trình làng và bảo lãnh, phải báo cho mái ấm gia đình biết. Người vào đạo phải nguyện trước bàn thờ cúng tổ tiên và tuyên thệ trước Tam bảo giữ gìn một đời một đạo cho đến ngày chung thân. Sau khi nhập đạo, mỗi người được nhận thẻ Fan Hâm mộ, được tham gia hoạt động và sinh hoạt đạo và đóng nguyệt liễm .
* Thứ tư: Về cơ cấu tổ chức
Theo truyền thống lịch sử, Phật giáo Hòa Hảo có 02 đối tượng người dùng tu hành đó là tu tại gia và tu xuất gia. Những người tu xuất gia hình thành hàng giáo phẩm trong đạo. Đối với người tu tại gia thì không có hàng giáo phẩm .
Thời kỳ đầu, Phật giáo Hòa Hảo do ông Huỳnh Phú Sổ – Giáo chủ cùng một số ít người thân tín lãnh đạo giáo hội. Đến giữa năm 1954, sau một quy trình chuẩn bị sẵn sàng, ông Huỳnh phú Sổ đã lập ra Ban Trị sự ở những cấp. Tuy nhiên cùng lúc này sống sót 02 dạng tổ chức triển khai bên cạnh Ban Trị sự những cấp đó là Đảng Dân xã và lực lượng vũ trang và trong tiến trình này vì Phật giáo Hòa Hảo hướng đến nhiều đến hoạt động giải trí chính trị nên vai trò của Ban Trị sự lu mờ so với Đảng dân xã và tổ chức triển khai vũ trang .
Mãi đến năm 1960, yếu tố tổ chức triển khai của Phật giáo Hòa hảo mới được xem xét, củng cố lại, mở màn từ việc thiết kế xây dựng lại Bản Điều lệ đề ngày 19/02/1963 ; sau đó đổi thành Bản Hiến chương đề ngày 06/12/1964. Tuy nhiên, gần 01 năm sau, tổ chức triển khai Giáo hội Phật giáo Hòa hảo mới được chính quyền sở tại TP HCM công nhận bằng sắc Luật 002 / 65 ngày 12/7/1965 .
Hiến chương Giáo hội Phật giáo Hòa hảo thiết kế xây dựng tổ chức triển khai theo cơ cấu tổ chức 05 cấp là Trung ương, tỉnh, Q., xã, ấp, đơn cử : Cấp Trung ương đặt dưới sự chỉ huy của Hội đồng Trị sự Trung ương và Hội đồng bảo pháp, trong đó : Hội đồng Trị sự Trung ương có 23 vị là trị sự viên ( 01 Hội trưởng, 02 Hội phó, 03 Cố vấn đoàn, 01 Chánh thư ký, 03 Phó thư ký, những Viện trưởng, Phó viện trưởng của những viện : Kiểm soát, Tài chính, Giáo lý, văn hóa truyền thống – xã hội, tổ chức triển khai ) và Hội đồng bảo pháp có 21 ủy viên. Ban Trị sự tỉnh có 17 thành viên. Ban Trị sự Q. có có 11 thành viên. Ban Trị sự ấp có 09 thành viên. Nhiệm kỳ Hội đồng Trị sự Trung ương là 03 năm ; Ban Trị sự tỉnh, huyện, xã là 02 năm ; Ban Trị sự ấp là 01 năm .
Sau ngày giải phòng Miền Nam, do 1 số ít hoạt động giải trí chính trị nên chính quyền sở tại cách mạng đã ra thông tin giải tán Ban Trị sự những cấp của Phật giáo Hòa Hảo. Đến khi quốc gia bước vào thời kỳ thay đổi, Đảng và Nhà nước đã liên tục xem xét, công nhận pháp nhân tổ chức triển khai giáo cho 1 số ít tôn giáo, trong đó có Phật giáo Hòa Hảo. Sau một thời hạn sẵn sàng chuẩn bị, dưới sự dẫn dắt của Ban hoạt động Phật giáo Hòa Hảo do ông Nguyễn Văn Tôn làm Trưởng ban, ngày 26/5/1999, Đại hội Đại biểu Phật giáo Hòa Hảo nhiệm kỳ I được tổ chức triển khai tại An Hòa tự ( An Giang ) và trải qua quy định hoạt động giải trí và bầu Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo cấp toàn đạo gồm có 11 thành viên do ông Nguyễn Văn Tôn làm Trưởng ban ; Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo là bước quá độ để tiến tới xây dựng Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo .
Tổ đình Phật giáo Hòa Hảo
( xưa thuộc làng Hòa Hảo, nay thuộc thị xã Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang ) .
Sau 06 năm hoạt động giải trí ( từ 1999 – 2004 ), ngày 08-09 / 6/2004, Đại hội nhiệm kỳ II của Phật giáo Hòa Hảo đã được tổ chức triển khai trang trọng tại An Hòa tự với sự tham gia của 571 đại biểu Fan Hâm mộ. Đại hội đã trải qua Hiến chương của Phật giáo Hòa Hảo và suy cử Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo. Sau đó ngày 28/6/2004 được sự chuyển nhượng ủy quyền của Thủ tướng nhà nước, Trưởng ban ban Tôn giáo nhà nước đã ra văn bản đồng ý chấp thuận Bản Hiến chương 2004 và list 21 vị trong Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo nhiệm kỳ 2004 – 2009 do ông Nguyễn Văn Tôn làm Trưởng ban và những ông Nguyễn Tấn Đạt, Bùi Văn Đương, Thái Văn Năng Nguyễn Huy Diễm làm Phó trưởng ban .
Bản Hiến chương năm 2004 xác lập đường hướng hoạt động giải trí là ” Vì đạo pháp, vì dân tộc bản địa thực thi tôn chỉ học Phật, tu Nhân, tại gia cư sĩ ; giáo huấn Fan Hâm mộ về Tứ ân ( ân tổ tiên, cha mẹ ; ân quốc gia ; ân tam bảo ; ân đồng bào và quả đât ), 08 điều răn cấm và giáo lý chơn truyền của đức Huỳnh giáo chủ, tương hỗ người nguy khó, tương hỗ trong quan, hôn, tang, tế và thực thi hữu dụng cho xã hội, cho nhơn sanh ” .
Theo bản Hiến chương 2004, cơ cấu tổ chức tổ chức triển khai Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo được hình thành 02 cấp : Ban Trị sự Trung ương và Ban Trị sự xã ( phường ) ; ngoài những ở cấp tỉnh có Ban Đại diện. Ban Trị sự Trung ương có 21 thành viên. Giúp việc cho Ban Trị sự Trung ương có những bộ phận trình độ là : Văn phòng, Ban kinh tế tài chính, Ban Phổ truyền giáo lý, Ban tổ chức triển khai và nhân sự, Ban từ thiện xã hội và Ban trấn áp. Nhiệm kỳ Ban Trị sự Trung ương là 05 năm. Trụ sở Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo đặt tại chùa An Hòa Tự, xã Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang .
Ban Trị sự cấp xã có từ 05 đến 07 thành viên, gồm Trưởng ban, Phó trưởng ban, Thư ký và Trị sự viên. Tùy theo yêu cầu đạo sự, Phó ban trị sự sẽ kiêm phụ trách các mảng từ thiện xã hội, phổ truyền giáo lý, tài chính, kiểm soát; nhiệm kỳ của Ban Trị sự xã là 05 năm theo nhiệm kỳ Ban Trị sự Trung ương. Ban Trị sự Trung ương và Ban Trị sự cấp xã là hai cấp hành chính đạo chính thức của Giáo hội, có con dấu pháp lý riêng để xử lý việc đạo.
Qua khám phá về giới luật, luật lệ, cơ cấu tổ chức tổ chức triển khai của Phật giáo Hòa hảo cho tất cả chúng ta thấy, giới luật, luật lệ, lễ nghi của Phật giáo Hòa Hảo đã đề cập đến những yếu tố đạo đức đơn cử của đời sống thế tục và không ít mang giá trị có tính nhân văn. Trên thực tiễn, những giá trị, chuẩn mực đạo đức lao lý trong giáo luật, luật lệ của Phật giáo Hòa Hảo đã có ý nghĩa nhất định trong việc duy trì đạo đức xã hội. Bên cạnh đó với cơ cấu tổ chức tổ chức triển khai gọn nhẹ, linh động và phương pháp hành đạo đơn thuần đã giúp cho Phật giáo Hòa Hảo dễ thích nghi đặc biệt quan trọng so với quần chúng nhân dân ở những tỉnh Nam bộ .
Source: https://www.doom.vodka
Category: Xổ số
Leave a Reply
You must be logged in to post a comment.